Tiểu sử tóm tắt của Ngài Trulsik Pema Chogyal

Được viết bởi tỳ kheo Jamyang Tenpa của Sheling tôn quý
Ngài Tripon Ngawang Pema Choegyal, một trong những vị cứu khổ của chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp, được sinh ra trong gia đình Chorig Tsangwa, tại một nơi gần Tu viện Drukgon Thekchok ở Ladakh thuộc tỉnh Ngari vào Năm Hổ Đất, năm thứ 15 Rabjung theo lịch Tây Tạng. Từ nhỏ, Ngài đã ưa thích việc đến thăm và thiền định một mình trong các hang động, nơi trú ẩn của những con chim và những nơi yên tĩnh, trải qua tuổi thơ đơn giản với những thiên hướng thiện nghiệp vốn có từ kiếp trước.
Không lâu sau, Ngài nhập thất tại Tu viện Thekchok và thức tỉnh cảm giác chân thành chán ghét về luân hồi trong khi học các nghi thức và cầu nguyện mandala, và các thực hành nghi lễ khác theo truyền thống Drukpa. Sau khi tốt nghiệp, thông thường các tu sĩ của tu viện phải đảm nhận thực hiện phận sự bắt buộc trong vai trò quản lý của tu viện theo thứ tự trong danh sách. Ngài đã chọn xin phép từ vị sư thầy tụng kinh, sư thầy quản giới luật, các sư thầy quản lý khác và cha mẹ mình để rời tu viện. Ngài có một quyết tâm mạnh mẽ để dấn thân vào con đường thực hành theo truyền thống của truyền thừa Drukpa bằng cách từ bỏ hoàn toàn mọi liên quan đến các hoạt động thế tục. Mặc dù bị từ chối và ngăn cản nhiều lần, ở tuổi 19, Ngài đã ra đi cùng với chú của mình hành hương đến Núi Kailash sau khi chuẩn bị một ít lương thực mang theo.
Sau đó, Ngài không trở về nhà, từ bỏ các hoạt động luân hồi và rời xa quê hương. Ngài đi đến vùng trung tâm của Tây Tạng và nhận được nhiều giáo pháp quan trọng, quán đỉnh từ Ngài Ladakh Gelong Rinpoche Dechen Lhundup, một đệ tử trực tiếp của Je Drukchen thứ 9, Kyabgon Drukpa Mepham Choekyi Wangpo, Yongzin Rinpoche, Kyabje Chokda Je Choekyi Gonpo và nhiều bậc thầy tâm linh khác trong các tu viện như Dech- en Choekor, Dhadingche, Jarsang Ngak. Khi thực hiện các pháp tu dự bị để tích lũy công đức và tịnh hóa các hành động bất thiện, Ngài đã thực hiện một triệu năm trăm ngàn lễ lạy, lễ cúng dường mandala và v.v. với sự dâng hiến to lớn và chịu đựng những khó khăn vô cùng. Đặc biệt, khi đấng Chánh Đẳng Chân Như của Phật Pháp, Je Drupe Wangchuk Shakya Shri Zanyana từ Domey đến Tsari Chikchar và Jar Kyiphuk ở tỉnh U-tsang và định cư ở đó vì lợi ích của chánh pháp phi bộ phái và chúng sinh, Ngài đã đi theo bước chân của Ngài Shakya Shri theo lời khuyên của bậc thầy trong quá khứ của Ngài trước khi nhập niết bàn là Ngài Bhikshu Dechen Lhundup Rinpoche, và đã nhận được pháp nhũ như vàng ròng, quan kiến và thiền định bí mật tối hậu về Đại Thủ Ấn và Đại Toàn Thiện, và những giáo lý sâu sắc khác về con đường giác ngộ nhanh chóng để đạt được Trạng thái kim cương trì hợp nhất ngay trong một đời, và đã nhận được những trao chuyền siêu việt của dòng khẩu truyền về Sáu pháp Yoga của đại học giả Naropa và Sáu Pháp Bình Đẳng Vị.
Về sự phát triển nội chứng bên trong Ngài về lòng chán ghét chân thành đối với luân hồi, và tâm chí thành và những sự chứng ngộ, Je Drupwang Chenpo rất hài lòng và khen ngợi Ngài bằng cách nói ‘Ngawang Pema Choegyal là một đệ tử chân
truyền từ bậc thầy của mình’’ và giao phó cho Ngài là người hướng dẫn chính về Sáu Chỉ Dẫn Đại Thủ Ấn và các bài giảng sâu sắc khác. Sau đó, Ngài ban tặng những lời pháp nhũ cho tất cả mọi người từ cao sang đến thấp hèn, và luôn luôn làm hài lòng các bậc thầy tâm linh của mình chỉ thông qua duy nhất những thành tựu tâm linh của mình. Nói tóm lại, Ngài đã nhận được tinh túy của những chỉ dẫn siêu phàm từ những bậc thầy tâm linh của mình, như thể nước được rót từ bình này sang bình khác, và trở thành một nhiếp chính vĩ đại, khép lại câu chuyện ngắn về giai đoạn đầu của cuộc đời Ngài.
Sau khi hoàn thành các nghi lễ hỏa thiêu của bậc Căn Bản Thượng Sư Drupwang Chenpo và viên mãn các tâm nguyện của mọi người, bao gồm cả các hậu duệ của Thượng Sư, các Lạt ma và các Hóa thân với những giáo lý sâu sắc của sáu pháp Yoga của Naropa và ngược lại, Ngài lên đường đến vùng thượng Tsang, chủ yếu để nhập thất một mình. Ban đầu, Ngài nhập thất trong điều kiện tồi tệ tại hang thiền của Shri Goetsang của Gyal trong ba năm và cũng ở nhiều nơi cô tịch khác của Rongshar Mabhu Lung và Lachi. Ngài giương cao ngọn cờ của Dòng truyền thừa thực hành như sự xuất hiện của một Milarepa thứ hai. Sau đó, Ngài đã từ bi nỗ lực bồi dưỡng các đệ tử may mắn, người đã tự nguyện cam kết từ bỏ những ảo tưởng về cuộc sống này, và khuyên nhủ họ bằng những chỉ dẫn tâm linh sâu sắc về Trưởng thành tâm linh và giải thoát, đồng thời tài trợ và huy động các tiện ích sinh sống cho họ. Tóm lại, Ngài đã cung cấp thức ăn, quần áo và hướng dẫn tâm linh và chăm sóc hơn một trăm tu sĩ cư trú trong các trung tâm thiền định khác nhau của Tu viện Kyiphuk gần khu vực Sang Nyak Choeling, Tashi Thongmon, Dechoe Dingpo Che, Shitse Samdup Choeling, Toekhul Kyewu
Tsang Samling , Neteng, Nyanang Dechen Teng, Mogon Yulo Koe, Langtso Gon và Tashi Choeteng, và chiếu sáng giáo lý thực hành như mặt trời.
Hơn nữa, Ngài có một số lượng lớn đệ tử từ mọi tầng lớp và trở thành một vị thầy tâm linh cho nhiều lạt ma và Tỳ-kheo, trong đó có Hóa thân thứ 11 của Kyabgon Drukchen (Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa 11), Tenzin Khenrab Gelek Wangpo, Drukchen Dungse Rinpoche Ngawang Gyurme, Drupse, Ron- gon Lama Rinpoche Jamyang Dakpa và Dakar Kargyu Tenzin Rinpoche. Ngài đã truyền toàn bộ những chỉ dẫn sâu sắc về Sự trưởng thành tâm linh, Giải thoát và Giác ngộ (thab grol chags) cho Apho Rinpoche và tiến cử vào vị trí của nhiếp chính của Bậc Thầy Kim Cương để thúc đẩy giáo pháp thực hành, Ngài khôi phục truyền thống Kagyu - vốn đã mai một theo thời gian hay do sự tàn lụi của Phật Pháp, và có những đóng góp to lớn đối với việc thúc đẩy Phật pháp của Dòng truyền thừa.
Đồng thời, như đã đề cập trong nội dung của bản văn, Ngài được bổ nhiệm làm người đứng đầu công việc in ấn hơn mười ngàn trang kinh điển, trong quá trình in nhiều kinh sách cốt tủy cần thiết để thực hành tâm linh một cách thực sự tại Nhà xuất bản Shri Neteng mới được xây dựng. Không chỉ trong phạm vi Tây Tạng, kinh điển cũng được lưu hành đến nhiều quốc gia khác như Ladakh, Bhutan, Sikkim, Garsha và Kunu. Thông qua tích lũy công đức bằng cách làm một mình công việc In Ấn, Ngài đã phục vụ tối đa cho Phật pháp.
Hơn nữa, từ việc cải tạo đến xây dựng mới các tu viện và các biểu tượng của tam bảo để cầu nguyện, sự phụng sự của Ngài về Ba Phương diện (nghiên cứu, quán chiếu và hoằng pháp) được biết đến rộng rãi. Cuối cùng, sau khi cố vấn cho các đệ
tử trực tiếp và hậu duệ về nhiệm vụ của họ, Ngài đã thị hiện nhập niết bàn ở tuổi tám mươi hai, vào một ngày đẹp trời dễ chịu của ngày 23 tháng 11, Năm Hợi, năm Rabjung thứ 16, giữa những dấu hiệu tuyệt vời và tốt lành được chứng kiến như trận động đất và mưa hoa từ bầu trời trong xanh.
Dựa trên sự chứng kiến, nghe và trải nghiệm cá nhân của riêng tôi, tiểu sử này của Kyabje Tripon Dorje Chang, được viết và trình bày bởi đệ tử rất khiêm tốn, Ven. Bhikshu Jamyang Ten- pa ở Sheling, với sự chân thành tuyệt vời, không phiến diện và không nịnh hót, theo yêu cầu bằng văn bản của người trì giữ kho báu giáo pháp Kyabje Apho Rinpoche, Drupten La, với cảm giác buồn bã sâu sắc vì không tìm thấy bất kỳ bản sao nào của sách tiểu sử của Kyabje Tripon Dorje Chang hiện tại được biết đến trước đây được biên soạn bởi Drakar Choktul Rinpoche.
Cảm xúc của bạn là gì ?






